Web3
Orchid - Hơn cả một giao thức VPN phi tập trung
#
Marketing
20 phút đọc
19/12/2022
7
0
0

Khi truy cập Internet, địa chỉ trang web và địa chỉ IP (Internet Protocol) của bạn được chia sẻ để thông tin có điểm đến.

Giả sử địa chỉ IP là 123.45.6 và bạn muốn truy cập 'messari.io'. Địa chỉ IP và thông tin khác được chia sẻ với một máy chủ, sau đó máy chủ sẽ chia sẻ lại thông tin yêu cầu (URL messari.io) đến địa chỉ IP của bạn.

Tuy nhiên, một số người có lẽ khá miễn cưỡng khi chia sẻ địa chỉ IP trên internet vì địa chỉ IP đó có thể bị các bên thứ ba chặn. Đây là điều không mong muốn vì bên thứ ba tình nguyện cung cấp thông tin cá nhân và họ muốn bảo mật, kiểm duyệt hoặc lý do cá nhân. 

Hơn nữa, khi sử dụng mạng WiFi công cộng - ví dụ mạng được cung cấp trong các quán cafe - thông tin được gửi và nhận trên các mạng này có thể dễ dàng quan sát được. Tính bảo mật có thể bị xâm phạm bởi một bên độc hại, theo dõi được tất cả thông tin nhạy cảm cũng như mật khẩu được đăng nhập và gửi qua các mạng công cộng này. Chính vì vậy, Orchid mong muốn giải quyết những vấn đề trên bằng một giao thức VPN phi tập trung.

icon-menu

VPN là gì?

Mạng riêng ảo - Virtual Private Network (VPN) thêm một layer phức tạp làm cho địa chỉ IP của bạn bị xáo trộn bằng cách mã hóa dữ liệu của bạn trước, sau đó định tuyến yêu cầu dữ liệu thông qua một máy chủ (server) khác. Do đó, địa chỉ IP đích được hiển thị là của máy chủ bạn đang sử dụng từ xa - đươc gọi là trạm cuối (exit node).

Nguồn: NordVPN

Với VPN, dữ liệu của bạn gồm địa chỉ IP 123.45.6 đầu tiên sẽ được mã hóa và gửi đến nhà cung cấp VPN. Sau đó, VPN sẽ ẩn địa chỉ IP bằng một trong các máy chủ riêng, cuối cùng thể hiện yêu cầu của bạn dưới một địa chỉ IP khác (ví dụ 432.65.1) trước khi yêu cầu URL messari.io. Sau khi nhận được yêu cầu, dữ liệu sau đó sẽ được chia sẻ trở lại địa chỉ IP cục bộ (local IP address) thông qua tunnel mã hóa (encrypted tunnel). 

Khách hàng thường sử dụng dịch vụ từ các nhà cung cấp VPN. Đây là một công ty sở hữu máy chủ ở các quốc gia khác nhau mà bạn có thể dùng làm trạm cuối (exit node). Trong hệ thống này, bạn tin tưởng công ty sẽ xem trọng quyền riêng tư và cung cấp dịch vụ mà họ đã hứa.

Về cơ bản, điều này cho phép người dùng “mượn” một địa chỉ IP để ẩn đi IP của mình và bảo vệ quyền riêng tư. 

VPN phi tập trung là gì?

VPN phi tập trung hay dVPN, cung cấp dịch vụ tương tự như các đối tác tập trung trừ việc không sử dụng cùng một hệ thống dựa trên sự tin cậy và thường có mã nguồn mở (open-source code).

Thay vì tương tác với nhà cung cấp băng thông rộng tập trung (centralised broadband) giúp giấu địa chỉ IP và dữ liệu trước khi truy cập internet, dVPN cho phép bất kỳ bên nào cũng có thể bán thêm băng thông rộng cho người khác sử dụng làm VPN để đổi lấy phần thưởng là tiền mã hóa.

Trong mô hình phi tập trung này, ai cũng có thể là nhà cung cấp VPN và có thể đặt giá dựa trên cung cầu. Sau đó nhà cung cấp và người dùng có thể tương tác trực tiếp mà không cần người trung gian tập trung - cho phép trao đổi giá trị ngang hàng (peer-to-peer).

Trong mô hình này quyền riêng tư được đảm bảo vì bản chất phân tán của dVPN loại bỏ khả năng thu thập hoặc lưu trữ lịch sử truy cập một cách tập trung. Một số VPN tán thành chính sách zero-log hay bảo mật mạnh, tuy nhiên một số vi phạm đã làm mất niềm tin vào những tuyên bố này. Đã có trường hợp các VPN uy tín nộp thông tin cho cơ quan chức năngmáy chủ bị tấn công làm lộ thông tin cá nhân của người dùng.

Vì không có điểm lỗi trung tâm trong dVPN và bất kỳ người tham gia mạng nào cũng có thể là nhà cung cấp hoặc người tiêu dùng băng thông (bandwidth), điều này tăng thêm mức độ bảo mật khỏi các vi phạm và kiểm duyệt.

Sự phân quyền của dịch vụ này đảm bảo quyền riêng tư thông qua việc bỏ đi một máy chủ trung tâm và mạng lưới không thể bị gỡ xuống.

Điều này cũng cho phép chủ quyền dữ liệu vì người dùng có toàn quyền kiểm soát dữ liệu - điểm chính của các ứng dụng Web3. Với VPN phi tập trung, rủi ro về lòng tin và quyền riêng tư bị xâm phạm không chỉ được giảm đi mà còn có thể biến mất hoàn toàn.

Orchid là gì và nó hoạt động như thế nào?

Orchid VPN là một thị trường VPN phi tập trung cho phép người dùng định tuyến lưu lượng truy cập (traffic) thông qua các nút mạng (node) khác nhau tham gia vào thị trường với tư cách là nhà cung cấp, các nút này được sắp xếp lại ngẫu nhiên ở mỗi bước. Không giống như các dVPN khác, Orchid thêm một layer bảo mật bằng cách thêm một layer mã hóa khác mỗi khi kết nối được định tuyến qua một nút khác, giống cách hoạt động của Tor browser Onion routing. 

Người dùng tùy chọn cấu hình kết nối sao cho lưu lượng truy cập (traffic) của họ đi qua được, hoặc 'hops' (hop là một thuật ngữ đề cập đến số lượng các bộ định tuyến mà phần dữ liệu đi qua từ nguồn đến đích), thông qua nhiều nhà cung cấp để xáo trộn các điểm vào và ra. Sử dụng nhiều nút như vậy được gọi là 'multi-hop'. Hạn chế của bảo mật bổ sung này là giảm tốc độ và mb/s.

Khi sử dụng Orchid VPN, các nút định tuyến lưu lượng truy cập được chọn bằng cách sử dụng quy trình lựa chọn tuyến tính có trọng số. Sẽ có một cây thư mục nút, trong đó mỗi nút là một nhánh và được chọn ngẫu nhiên thông qua lựa chọn nhị phân và dựa trên quy mô stake của chúng. Người dùng cũng có thể thêm bộ lọc riêng cho các nút được sử dụng, ví dụ như độ trễ (latency), vị trí địa lý (geolocation) hoặc thẻ siêu dữ liệu tùy chỉnh (custom metadata tags).

Để đổi lấy dịch vụ này, khách hàng thanh toán cho các nút bằng các nanopayments xác suất (sẽ được giải thích bên dưới).

Vì đây là một thị trường mở, nhà cung cấp tự định giá và khách hàng đặt số tiền sẵn sàng trả cho dịch vụ. Điều này giúp thị trường đạt trạng thái cân bằng, sử dụng các quy luật kinh tế lâu đời của cung cầu và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.

Mặc dù mục tiêu đề ra của Orchid Protocol là cho phép bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào cũng có thể bán băng thông vượt mức (excess bandwidth) trên thị trường VPN, nhưng hiện tại chỉ những nhà cung cấp có băng thông và tài nguyên cấp doanh nghiệp mới được phép hoạt động trong phạm vi này.

Máy chủ mà khách hàng có thể định tuyến lưu lượng truy cập của họ chỉ được cung cấp bởi các nhà cung cấp VPN tập trung, được liệt kê ở đây. Địa chỉ IP của một số máy chủ VPN nhất định đã được các nhà chức trách biết, do đó các yêu cầu kết nối có thể được xem là người dùng VPN nếu đã xác định trạm cuối được sử dụng. Điều này không có nghĩa là quyền riêng tư của khách hàng bị xâm phạm, mà họ có thể bị từ chối thông tin họ đã tìm kiếm do IP đã bị đưa vào danh sách đen (ví dụ: Không thể truy cập sàn giao dịch crypto nước ngoài từ địa chỉ IP của Hoa Kỳ).

Mặc dù Orchid là một mạng lưới phi tập trung nhưng tất cả những người bán hiện tại đều là các nhà cung cấp VPN tập trung và được xác định.

Khi Orchid cho phép bất kỳ ai cũng trở thành nhà cung cấp, địa chỉ IP của tất cả các nút sẽ được ghi lại trong Public Node Directory (thư mục nút công khai) và lưu trữ trên Ethereum. Thông tin này công khai nên dễ dàng để bất kỳ bên nào (muốn hạn chế khách hàng sử dụng dịch vụ VPN) chặn các bên nói trên. Điều này là do tất cả địa chỉ IP được liệt kê trong thư mục cũng có thể được đưa vào danh sách đen. Giải pháp để khắc phục vấn đề mà vẫn sử dụng Orchid VPN là khả thi, tuy nhiên yêu cầu mức độ kỹ thuật cao và hiện chưa được tích hợp vào cơ sở hạ tầng giao thức Orchid.

Cần lưu ý rằng các tài khoản sử dụng Orchid không phải là ẩn danh (anonymous), mà là bút danh (pseudonymous). Các khoản thanh toán được thực hiện bằng OXT từ khách hàng đến nhà cung cấp tiến hành trên Ethereum blockchain. Điều này không làm lộ lượng băng thông cũng như mục đích sử dụng từ khách hàng, nhưng khoản thanh toán cho biết địa chỉ này đã sử dụng dịch vụ Orchid VPN.

Có nhiều cách để giải quyết vấn đề này, như việc sử dụng coinmixers hoặc lấy tiền mã hóa ban đầu thông qua thanh toán bằng tiền mặt so với trao đổi tiền mã hóa theo quy định (tuân thủ KYC - Know Your Customer và AML - Anti Money Laundering) như Coinbase. Tuy nhiên, đây cũng không phải là tính năng được đưa vào giao thức và tùy thuộc vào người dùng để thực hiện. Đây không phải là lỗi của giao thức Orchid, nhưng là một tính năng vốn có của các blockchain công khai, trong đó tính minh bạch là không thể thiếu.

Nanopayments

Mặc dù người dùng có thể truy cập các dịch vụ VPN thông qua giao thức Orchid nhưng Orchid không phải là nhà cung cấp hay dịch vụ VPN phi tập trung mà chỉ là cung cấp cơ sở hạ tầng thị trường phi tập trung cho phép người dùng mua và bán dịch vụ.

[caption id="attachment_9245" align="aligncenter" width="1600"]Mối quan hệ giữa các bên trong nền tảng Orchid Mối quan hệ giữa các bên trong nền tảng Orchid

Cơ sở hạ tầng này tạo ra một thị trường VPN nơi người tham gia có thể cung cấp và sử dụng băng thông cũng như các dịch vụ VPN theo cách phi tập trung.

Đến nay giao thức Orchid đã được sử dụng để tạo ra một thị trường VPN, nhưng cơ sở hạ tầng này có thể được áp dụng cho bất kỳ loại thị trường dịch vụ kỹ thuật số nào - đây là điều mà whitepaper Orchid nhận thức được.

Thị trường dịch vụ phi tập trung này hoạt động thông qua sử dụng ‘nanopayments’. Nanopayments của Orchid là các khoản thanh toán có xác suất, trong đó thay vì gửi 1 USD, người dùng sẽ gửi khoản thanh toán với cơ hội 1% để thanh toán 100USD.

 Mô hình nanopayment. Nguồn: Orchid

Tình huống ví dụ: Alice muốn mua một dịch vụ từ Bob, Bob định giá dịch vụ đó là 20 USD.

Thanh toán truyền thống:

  1. Alice đưa cho Bob 20USD
  2. Bob thực thi dịch vụ

Thanh toán nano xác suất (Nanopayments):

  1. Alice gửi 20USD vào một hợp đồng thông minh (ký quỹ) để chứng minh với Bob là Alice có khả năng thanh toán cho dịch vụ
  2. Hợp đồng mang lại cho Alice 200 ‘vé’ (nanopayments) đại diện cho giá trị đã khóa, chỉ một trong số các vé thực sự có thể đổi số tiền bị khóa trong hợp đồng - đây được gọi là ‘vé trúng thưởng’ (winning ticket) 
  3. Alice gửi những vé này cho Bob trên cơ sở pay-as-you-go (PAYG - trả tiền khi sử dụng) để đổi lại dịch vụ mà Bob đang bán
  4. Khi Bob đã nhận được tất cả 'vé', Bob có thể đổi tiền bằng ký quỹ vì 'vé trúng thưởng' hiện thuộc quyền sở hữu của Bob. Nếu anh ta cố gắng ‘mở khóa tiền’ trước khi cung cấp cho Alice dịch vụ đã hứa, anh ta không được đảm bảo sở hữu số tiền bị khóa.

Điều này có ý nghĩa gì?

Nếu Alice chỉ gửi cho Bob 20USD, sẽ không có gì đảm bảo rằng Bob sẽ cung cấp dịch vụ và nếu anh ta cung cấp dịch vụ trước khi nhận thanh toán, sẽ không có gì đảm bảo rằng Alice sẽ trả cho Bob - trường hợp ở các thị trường truyền thống, do đó bên giám sát thứ ba tồn tại để đảm bảo và tạo điều kiện cho tính bảo mật và tính hợp lệ của các giao dịch này.

Tuy nhiên với nanopayments, Alice có thể thanh toán cho Bob khi đổi dịch vụ Bob đang bán mà không cần bên thứ ba. Do đó, không cần bên giám sát hoặc thỏa thuận pháp lý nào với giao dịch này và nó có thể được thực hiện theo cách hoàn toàn không cần tin cậy (trustless) giữa Alice và Bob. Nếu Alice ngừng sử dụng dịch vụ, cô ấy có thể lấy lại số tiền mà cô ấy đã ký quỹ.

Thực tế với Orchid, thay vì sử dụng 200 vé mà mỗi vé có xác suất 0,1 là ‘vé trúng thưởng’, 2.000.000.000.000 vé được gửi đi, mỗi vé cxác suất là 0,00000001.

Những vé này được gửi ngoài chuỗi (off-chain), chỉ có vé trúng thưởng được giao dịch trên chuỗi (on-chain), bỏ qua việc tích lũy phí giao dịch vì gửi nhiều khoản thanh toán nhỏ. Do đó hệ thống nanopayments hoạt động như một giải pháp mở rộng layer 2, cho phép thông lượng và khối lượng cao trên mạng lưới.

Việc giảm phí giao dịch và tăng dung lượng mạng (network capacity) đặt ra giới hạn người dùng hiện tại ở mức vài triệu, tiềm năng tăng cao hơn sau khi sharding Ethereum 2.0 được triển khai.

OXT Tokeneconomics

OXT là một token ERC-20 của Orchid. OXT có hai chức năng:

  1. Thanh toán cho băng thông - liquid token để tạo điều kiện sử dụng
  2. Staking - làm tài sản thế chấp cho nhà cung cấp và để tăng doanh thu dự kiến

Lợi ích này làm áp lực mua tăng lên - miễn là có lưu lượng truy cập mạng (ví dụ: nhu cầu về các dịch vụ VPN phi tập trung).

OXT có nguồn cung cố định là 1.000.000.000 OXT, tất cả được mint vào 10/12/2019 và được phân phối như sau:

  • Nhà đầu tư Vòng gọi vốn series A: 17,3%
  • Nhà đầu tư Vòng gọi vốn series B: 4,49%
  • Nhà đầu tư Vòng gọi vốn series C: 3,38%
  • Đội ngũ: 23,7%
  • Khuyến khích mạng lưới/Treasury/Khác: 51,13% để sử dụng cho doanh số trong tương lai và được phân phối thông qua phần thưởng staking

Câu hỏi phổ biến khi đánh giá các mạng lưới crypto là liệu giao thức có nên sử dụng ETH hay native token không.

Việc tạo native token làm khuyến khích kinh tế trong mạng lưới, chỉ có thể thiết kế bằng cách kiểm soát việc thiết lập chính sách tiền tệ và phần thưởng. Về vấn đề này, OXT cung cấp quyền kiểm soát và thiết kế đối với giao thức mà không thể thực hiện được bằng cách sử dụng coin hoặc token phổ biến bên ngoài.

Với thị trường băng thông, việc yêu cầu nhà cung cấp stake một lượng lớn OXT tạo ra khuyến khích để thử và gây ảnh hưởng tích cực đến giá token vì cuối cùng nó quyết định giá trị cổ phần stake của nhà cung cấp. Phản hồi tích cực này sẽ ảnh hưởng đến tất cả người tham gia và làm cho các khuyến khích trở nên phù hợp. Việc làm này tạo nên mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa hoạt động mạng lưới và giá token.

Việc sử dụng một loại tiền điện tử bên ngoài như ETH (vốn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên ngoài thị trường Orchid) dẫn đến mối tương quan giữa hoạt động và giá cả thấp đi nhiều. Do đó, việc tạo ra token mà ‘sức khỏe’ của nó liên quan trực tiếp đến ‘sức khỏe’ của hệ sinh thái sẽ tạo ra động lực mạnh cho người tham gia hành động theo cách cùng có lợi, vì lợi ích tốt nhất của tất cả các bên khác.

Cơ chế staking

Để chạy được một nút, nhà cung cấp phải stake OXT để chứng minh danh tính. Nếu nhà cung cấp hành động ‘độc hại’, họ có nguy cơ mất tài sản thế chấp đã stake. Đây là điều khuyến khích các hành vi tốt. Sau khi token đã bị khóa (locked in a stake) trong hợp đồng thông minh, token có thể được sử dụng ngay để cung cấp dịch vụ - trong trường hợp này là băng thông.

Orchid sử dụng cơ chế stake-weighting để đảm bảo tính bảo mật và sự đồng thuận (consensus). Đây cũng là phương pháp phân phối phần thưởng staking.

Có hai loại stake khác nhau trên mạng lưới:

  1. Staking cho nhà cung cấp (Provider staking): trong đó nhà cung cấp băng thông phải stake token trong một khoản tiền gửi khóa có thời gian (3 tháng) để bắt đầu bán băng thông
  2. Staking cho khách hàng (Client staking): trong đó các bên có thể ủy quyền token cho nhà cung cấp. Nhà cung cấp được khuyến khích liên tục cung cấp dịch vụ chất lượng vì nếu người dùng không hài lòng có thể chuyển sang các nhà cung cấp cạnh tranh. Điều này đảm bảo người dùng tiếp tục sử dụng dịch vụ. Số tiền stake lớn hơn làm tăng xác suất người dùng được chuyển hướng đến nhà cung cấp để mua dịch vụ, làm tăng doanh thu tiềm năng cho nhà cung cấp. Do đó, lượng stake trên một nút tỷ lệ thuận với phần thưởng nhận được và tăng một cách tuyến tính.

Mỗi nút có dung lượng băng thông tối đa (maximum bandwidth capacity), sau khi đạt dung lượng tối đa sẽ làm cho token được stake trở nên ‘vô dụng’. Điều này ngăn tình trạng độc quyền phần thưởng và tập trung hóa việc cung cấp dịch vụ.

Sản phẩm phụ (và mục tiêu) của mối quan hệ tuyến tính giữa việc tăng tiền stake và phần thưởng là việc vô hiệu hóa các tấn công Sybil, vì nếu một kẻ ‘độc hại’ chia khoản stake của họ trên nhiều nút thì sẽ không làm tăng lợi nhuận dự kiến.

Người dùng có thể stake token với nhà cung cấp với tư cách là “staking partner”. Các nhà cung cấp tìm thêm OXT để tăng stake và doanh thu nhằm chia sẻ một ít doanh thu với các đối tác staking là khách hàng.

Tuy nhiên, cách các nút chia sẻ doanh thu với các client staker không phải theo kiểu không cần độ tin cậy và phải được chuyển hướng thủ công đến các client staker. Không có gì đảm bảo nút sẽ tuân theo hợp đồng này hoặc chuyển các khoản thanh toán định kỳ đến khách hàng theo phần stake của họ.

Khi un-staking token sẽ có thời gian ‘cool-down’ là 3 tháng, token không thể giao dịch hay sử dụng - để ngăn chặn việc ‘trò chơi hóa’ mạng lưới và đảm bảo các staker cam kết cung cấp tiện ích cho mạng lưới. Hệ thống stake-weighting tạo ra một mạng lưới mà các khuyến khích của người tham gia - nhà cung cấp băng thông, người tiêu dùng băng thông và các client staker - được liên kết với nhau, dẫn đến một hệ sinh thái tự duy trì.

Mối đe dọa hiện tại và tiềm năng chớm nở của Orchid

Thị trường VPN toàn cầu hiện được định giá 31,1 tỷ USD và đang phát triển nhanh chóng với các dự báo khác nhau, ước tính quy mô vào 2027 là từ 75,59 tỷ USD lên 120 tỷ USD.

Mặc dù tổng thị trường khả dụng (TAM - total addressable market) của VPN thuận lợi cho Orchid, nhưng cũng có lợi cho rất nhiều các đối thủ cạnh tranh. Thứ nhất, có các dịch vụ VPN truyền thống, tập trung như Nord VPN và Express VPN. Như đã đề cập ở phần đầu, niềm tin mất đi ở nhiều nhà cung cấp tập trung, nhưng họ vẫn kiểm soát phần lớn thị trường.

Sau đó có các VPN ngang hàng, phi tập trung khác như Tor và I2P (Dự án internet vô hình). Ngoài ra, có các dịch vụ phi tập trung khác cũng sử dụng các mạng dựa trên token như Mysterium, Sentinel và Deeper Network.

Hơn nữa, Orchid không phải là giải pháp thân thiện với người dùng nhất trong số các giải pháp VPN nói trên.

Trong số tất cả các ứng dụng (ứng dụng web, iPhone, Android, Linux, Mac OS), chỉ có ứng dụng iPhone là truy cập nhanh và dễ dàng. Để sử dụng sản phẩm này, cần có hiểu biết nhất định về kỹ thuật và tiền mã hóa. Điều này làm giảm đáng kể phạm vi của dịch vụ và thị phần tiềm năng. Ngược lại, Mysterium có một ứng dụng điện thoại cực kỳ đơn giản, dễ sử dụng ngay cả với những người chưa quen, điều này được thể hiện qua số lượt tải xuống ứng dụng trên điện thoại Android cao gấp đôi so với Orchid (100k so với 50k).

Tuy nhiên, Orchid vẫn có một vài ưu điểm. Ưu điểm đầu tiên là uy tín vững chắc của Orchid: Các thành viên cốt lõi trong nhóm đều được tôn trọng trong ngành và có mối quan hệ phù hợp với nhau. CEO - tiến sĩ Steven Waterhouse là một đối tác cũ tại Pantera Capital và một co founder khác - Gustav Simonsson, là một nhà phát triển Ethereum trước đây. Các thông tin và tầm nhìn đã giúp thu hút một số nhà đầu tư lớn nhất gồm các quỹ như a16z và Polychain Capital.

Yếu tố khác biệt chính của Orchid là hệ thống thanh toán nano. Đây là phương pháp sáng tạo để mua và bán các dịch vụ kỹ thuật số theo cách phi tập trung, trustless và có thể mở rộng.

Phạm vi hiện tại của hệ thống thanh toán này bị giới hạn trong thị trường băng thông Orchid, tuy nhiên có thể được áp dụng cho nhiều mục đích khác. Cơ sở hạ tầng này có khả năng phá vỡ bất kỳ thị trường nào mà dịch vụ được cung cấp bởi vô số người dùng, khiến nó trở thành một đối thủ khả thi cho cơ sở hạ tầng thanh toán khi sử dụng (pay-as-you-go) trong hệ sinh thái Web3 đang phát triển.

Trong khi giao thức Orchid có thể tìm thấy các trường hợp sử dụng khác cho cơ sở hạ tầng thanh toán nano, thị trường VPN phi tập trung của Orchid hiện là ứng dụng chính và có cơ sở người dùng ngày càng tăng. Mặc dù người tiêu dùng có thể tranh luận về việc nên sử dụng VPN nào, nhưng rõ ràng rằng VPN là một dịch vụ chớm nở và còn nhiều tiềm năng để phát triển.

Bài viết được Hồng Nhung thuộc FXCE crypto biên tập từ “Orchid Protocol: More Than a Decentralized VPN Protocol" của Karim Halabi, với mục đích cung cấp thông tin và phi lợi nhuận. Chúng tôi không khuyến nghị đầu tư và không chịu trách nhiệm cho các quyết định đầu tư liên quan đến nội dung bài dịch.

#Web3
#Infrastructure
ic-comment-blueBình luận
#