Layer-1
Định hướng mở rộng quy mô Cardano: Chậm mà chắc
#
Marketing
23 phút đọc
17/01/2023
16
0
0

Các insight chính

  • Cardano là một trong những mạng lưới hợp đồng thông minh lớn nhất, có giá trị vốn hóa thị trường hàng tỷ USD và hàng triệu người sở hữu.

  • Tiếp nối Alonzo hard fork, quá trình phát triển hợp đồng thông minh đã tăng lên và tạo ra nhiều giao thức DeFi mới.

  • Mô hình kế toán eUTXO cho phép chuyển token gốc, khả năng mở rộng và phân cấp.

  • Các sidechain và layer-2 chẳng hạn như Hydra nhằm mục đích mở rộng mạng lưới hơn nữa.

  • Cardano vẫn trung thành với cách phát triển có phương pháp, thận trọng và đôi khi chậm chạp, ưu tiên tính bền vững hơn tốc độ.

Cardano được tạo ra với mục tiêu giải quyết các vấn đề về bảo mật, khả năng mở rộng và tính bền vững. Dự án này sớm áp dụng hai trong số các lựa chọn kiến trúc phổ biến hiện nay: Proof-of-Stake (PoS) và Modular. 

Cardano đã phát triển Ouroboros Classic làm cơ chế đồng thuận PoS đầu tiên của mình và chia các chức năng tính toán và thanh toán thành các layer riêng biệt. Kết hợp với mô hình đầu ra giao dịch chưa sử dụng (unspent transaction output - UTXO) cho mạng lưới hợp đồng thông minh đã được lên kế hoạch, Cardano tự coi mình là blockchain “thế hệ thứ ba” — cùng với Bitcoin là thế hệ đầu tiên và Ethereum là thế hệ thứ hai.

 Cardano tiếp cận một cách có tính toán để phát triển, đưa các chức năng thông qua quá trình xét duyệt ngang hàng (peer review) nghiêm ngặt về mặt học thuật trước khi tiến hành. Trong khi lộ trình ban đầu của Cardano vẫn đang được tiến hành, các hạng mục “đã hoàn thành” trong lộ trình Cardano tiếp tục được cải thiện. Cơ chế PoS của Cardano, Ouroboros, đã trải qua một số phiên bản khác nhau với nhiều lần lặp lại theo kế hoạch.

Cardano có một lượng lớn người hâm mộ cuồng nhiệt trên mạng xã hội, rất tin tưởng vào chuỗi, từ Twitter (1,3 triệu người theo dõi) đến Reddit (670.000 thành viên) cùng YouTube và được thúc đẩy bởi sự lãnh đạo của người sáng lập Charles Hoskinson.

icon-menu

Bối cảnh ra đời

Cardano là một blockchain mã nguồn mở, hỗ trợ hợp đồng thông minh bắt nguồn từ nghiên cứu học thuật đã được bình duyệt. Quá trình phát triển Cardano bắt đầu vào năm 2015, được sáng lập bởi Charles Hoskinson và Jeremy Wood, cũng như team tại Input Output Hong Kong (IOHK), nay là Input Output Global (IOG). Hoskinson và Wood đã làm việc trên Ethereum trước khi bắt đầu Cardano. Cardano và token ADA đã ra mắt vào tháng 9 năm 2017 sau một đợt ICO nhiều giai đoạn.

Tiến độ của dự án đã được cân nhắc và kiểm tra nghiêm ngặt theo lộ trình. Tất cả các chức năng và giao thức đều được bình duyệt trước khi triển khai, trong một số trường hợp điều này sẽ làm chậm quá trình sản xuất. Ví dụ: các hợp đồng thông minh không được kích hoạt cho đến sự kiện Alonzo hard fork vào tháng 9/ 2021 — tròn 4 năm sau khi mạng lưới ra mắt.

Cardano được hỗ trợ bởi ba tổ chức:

  • Input Output Global (IOG) — Một công ty nghiên cứu và phát triển blockchain do Charles Hoskinson và Jeremy Wood thành lập. Đây là nhánh phát triển.

  • The Cardano Foundation — Một tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào sự phát triển cốt lõi và tăng trưởng hệ sinh thái. Tổ chức này sở hữu thương hiệu Cardano và thúc đẩy việc áp dụng.

  • EMURGO — Một công ty đầu tư mạo hiểm là chi nhánh hoạt động vì lợi nhuận của Cardano. EMURGO tạo điều kiện tích hợp cho các đối tác kinh doanh Web2 và ươm mầm các cơ hội kinh doanh.

Roadmap

Lộ trình của Cardano bao gồm năm giai đoạn: Byron, Shelley, Goguen, Basho và Voltaire. Các giai đoạn này không nhất thiết phải diễn ra tuần tự, có một số giai đoạn tiếp tục được lặp lại rất lâu sau khi ra mắt.

  • Byron - Giai đoạn nền tảng: Byron bắt đầu vào tháng 9/2017 khi blockchain Cardano khởi chạy mainet. Trong giai đoạn này, chuỗi hoạt động như một mạng lưới liên kết chỉ hỗ trợ các giao dịch ADA.

  • Shelley - Giai đoạn phân quyền: Shelley ra mắt vào tháng 7/2020, giao thức Ouroboros Proas Proof-of-Stake (PoS) do Cardano đề xuất thành hiện thực.

  • Goguen - Giai đoạn hợp đồng thông minh: Goguen đã hỗ trợ thêm cho các hợp đồng thông minh vào tháng 9/2021. Ngôn ngữ lập trình Plutus được phát hành và chào đón các dapp, NFT và hệ sinh thái DeFi.

  • Basho - Giai đoạn mở rộng quy mô: Basho hiện đang được tiến hành và nhằm mục đích cải thiện khả năng mở rộng bằng cách thêm các sidechain và L2 vào hệ sinh thái.

  • Voltaire - Giai đoạn quản trị: Voltaire đang tiến hành đồng thời với Basho và sẽ thực hiện những bước cuối cùng hướng tới sự tự bền vững. Voltaire chịu trách nhiệm về hệ thống ngân quỹ và hệ thống bỏ phiếu cho các Đề xuất Cải tiến Cardano (Cardano Improvement Proposals - CIPs). Sau khi hoàn thành, cộng đồng sẽ kiểm soát các hard fork và ngân quỹ thay cho IOG, Cardano Foundation và EMURGO hiện đang nắm giữ tất cả bảy khóa quản trị.

Công nghệ

CSL và CCL

Cardano có thiết kế kiểu module và hoạt động trên hai layer riêng biệt gồm: Layer thanh toán (Cardano Settlement Layer - CSL) được tối ưu hóa để di chuyển giá trị và Layer tính toán (Cardano Computing Layer - CCL) được tối ưu hóa để lưu trữ dữ liệu.

CSL hoạt động như một sổ cái cho các tài khoản để trao đổi giá trị. CSL cũng là layer thực thi sự đồng thuận. Mặt khác, CCL xử lý việc thực hiện các hợp đồng thông minh và logic tùy ý (arbitrary logic). Vì CCL mang những phức tạp về tính hoàn chỉnh của Turing cho các hợp đồng thông minh, nên CSL là layer an toàn, hiệu quả và linh hoạt hơn.

Cả hai layer có thể được cập nhật độc lập, góp phần vào sự phát triển bền vững.

Cơ chế đồng thuận

Ouroboros là cơ chế đồng thuận Proof-of-Stake (PoS) của Cardano. Trong hệ thống này, người dùng có thể ủy quyền ADA của mình cho nhà điều hành nhóm cổ phần (stake pool operator) và kiếm phần thưởng trong khi vẫn giữ quyền sở hữu token của mình. Cardano là một trong những loại tiền mã hóa  đầu tiên áp dụng cơ chế đồng thuận PoS, cụ thể là sử dụng một biến thể có tên là Delegated-Proof-of-Stake (DPoS).

Ouroboros chia thời gian thành các chu kì (epoch) năm ngày và tiếp tục chia mỗi epoch thành 21.600 slot, trung bình 20 giây mỗi slot. Mỗi node sử dụng một hàm ngẫu nhiên có thể kiểm chứng (Verifiable Random Function - VRF) để tạo một số ngẫu nhiên. Nếu số VRF dưới một ngưỡng nhất định, node đó sẽ trở thành “slot leader” và đề xuất một block. Nếu nhiều node đạt được điều này, thì tất cả  các node đều tạo ra các block và slot leader được chọn tiếp theo sẽ dựa trên số VRF thấp nhất của nhóm. Ngưỡng phụ thuộc vào số lượng ADA, ưu tiên các nhóm đặt cược (staking pool) lớn hơn.

Đã có nhiều phiên bản Ouroboros kể từ lần đầu tiên phát triển cho mạng lưới và vẫn đang được lặp đi lặp lại. Ouroboros Classic là phiên bản đầu tiên ra mắt vào năm 2017. Ouroboros Genesis ra mắt vào năm 2018 và giải quyết vấn đề bootstrap theo cách phân tích.

Ouroboros Praos là cơ chế đồng thuận hiện tại. Trong Praos, các stake pool operator/ validator biết trước slot mà mình dẫn đầu, nhưng những validator khác thì không. Ngoài ra, không có người dùng nào biết trước mỗi slot sẽ có bao nhiêu slot leader. Điều này bổ sung một lớp bảo mật vì giúp ngăn chặn các cuộc tấn công DDOS vào các slot leader. Trong các phiên bản trước của Ouroboros, các slot leader đã được biết trước công khai và chỉ có một slot leader tương ứng với một slot duy nhất.

Kể từ khi ra mắt hơn 5 năm trước, Cardano chưa bao giờ bỏ qua một block nào hoặc phải khởi động lại (reboot). Cũng không có sự cố shutdown mạng lưới trong quá trình nâng cấp. Các mạng lưới khác, chẳng hạn như PolkadotMina, đã chọn sử dụng Ouroboros và điều chỉnh theo nhu cầu của mình.

Mô hình kế toán

Trong mô hình kế toán UTXO, tài sản được lưu trữ trên sổ cái dưới dạng đồ thị xoay chiều có hướng (Directed Acyclic Graph - DAG) giữa các địa chỉ. Trong một giao dịch, những kết quả đầu ra chưa sử dụng (unspent output) đó được dùng để tạo ra các output mới.

Ngược lại, mô hình dựa trên tài khoản (account-based model) cộng và trừ các giao dịch từ các địa chỉ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu về trạng thái mạng lưới. Ethereum, Solana, tất cả các chuỗi dựa trên EVM và nhiều mạng lưới hợp đồng thông minh khác đều sử dụng mô hình dựa trên tài khoản.

UTXO cổ điển (Classic UTXO)

Cardano sử dụng mô hình UTXO, giống như Bitcoin nhưng khác Ethereum. Các giao dịch có thể bao gồm một hoặc nhiều UTXO làm đầu vào (input) và một hoặc nhiều UTXO làm đầu ra (output) — tất cả đều có kích thước tùy ý — để đáp ứng nhu cầu chuyển giao.

Ví dụ: nếu Alice có một UTXO trị giá 5 ADA và muốn trả cho Bob 2 ADA — UTXO này sẽ được chia thành một UTXO 2 ADA cho Bob, một UTXO 0,2 ADA để trả phí và một UTXO 2,8 ADA trả lại cho Alice dưới dạng “change” - thay đổi, giống như tiền mặt. UTXO ban đầu đó sẽ không còn là UTXO vì nó hiện đã được sử dụng và không bao giờ có thể được sử dụng lại.

UTXO mở rộng (Extended UTXO)

Cardano sử dụng một phiên bản mới của UTXO được gọi là extended UTXO (eUTXO). eUTXO bao gồm một dữ liệu và tập lệnh, cho phép logic tùy ý (arbitrary logic) và siêu dữ liệu (metadata) được gắn vào từng giao dịch riêng.

eUTXO bao gồm hai tính năng vượt trội hơn so với UTXO cổ điển:

  • Tập lệnh: Logic tùy ý tham chiếu chính eUTXO và dữ liệu eUTXO để xác định xem có thể được dùng làm input cho một giao dịch mới hay không.

  • Dữ liệu: Metadata hoặc hợp đồng thông minh trong Plutus, hướng dẫn cho người xây dựng giao dịch về những việc cần làm với eUTXO.

eUTXO trong thực tế

So với mô hình dựa trên tài khoản (account-based model), mô hình eUTXO:

  • Có phí xác minh giao dịch rẻ hơn - vì không cần phí bộ nhớ để theo dõi trạng thái chuỗi tích lũy.

  • Có yêu cầu node thấp hơn về mặt lưu trữ dữ liệu - cây trạng thái của tất cả số dư tài khoản không cần phải được lưu giữ như với account-based model (lý do tương tự như trên).

  • Mang tính xác định - các output của giao dịch dựa trên output từ các giao dịch trước đó, buộc phải có tính nguyên tử (atomicity). Chi phí và hiệu lực của các giao dịch có thể được dự đoán trước khi thực hiện. Phí cũng có thể được dự đoán vì không có thứ tự tùy ý dựa trên một biến phí gas.

  • Có thể mở rộng quy mô - vì các giao dịch có thể được xử lý song song.

  • Ít phổ biến với các nhà phát triển hơn - phần lớn các nhà phát triển Web3 đã quen với các giao dịch dựa trên tài khoản.

  • Có rủi ro tương tranh (concurrency risk) - các nhà phát triển Dapp phải tìm cách thực hiện hàng loạt các giao dịch để cho phép các tương tác UTXO đồng thời trong cùng một block.

Dapps trên Cardano phải tính đến mô hình eUTXO và tự cấu trúc để tránh các vấn đề tương tranh. Vì mỗi UTXO chỉ có thể được sử dụng một lần, các giao thức không thể cung cấp UTXO của một người dùng cho nhiều người dùng cùng một lúc.

Các nhà phát triển phải tiếp cận Cardano DeFi khác với cách họ làm trên Ethereum, Solana hoặc các giao thức dựa trên tài khoản khác và tạo ra các giải pháp độc đáo của riêng mình cho các vấn đề tương tranh.

  • SundaeSwap — Một DEX sử dụng Scoopers, công cụ tổng hợp của bên thứ ba được DAO cấp phép, để thực hiện các loạt giao dịch (batch) dưới dạng giao dịch đơn lẻ.

  • MELD — Một giao thức cho vay sử dụng hệ thống dự trữ on-chain để dự trữ UTXO từ người dùng và sau đó thực thi chúng dưới dạng một batch đối với pool UTXO.

  • Các giải pháp khác bao gồm off-chain batching, các thread độc quyền hợp nhất thành các batch và thay thế cho thanh khoản ảo.

Nhiều giải pháp trong số này cho phép các thành viên cộng đồng tham gia và nắm bắt giá trị bằng cách cung cấp các dịch vụ hàng loạt. Các chiến lược khác nhau này giúp cho hệ sinh thái Cardano DeFi hoạt động tương tự như các môi trường đa chuỗi dành riêng cho ứng dụng, nơi các giao thức có các chiến lược không đồng nhất và được tối ưu hóa hơn là một bản sửa lỗi vì mục đích chung.

Native Token

Trên các blockchain có mô hình giao dịch account-based (ví dụ: chuỗi EVM), token gốc duy nhất của blockchain (ví dụ: Ether trên Ethereum) có các chức năng khác với tất cả các token khác (token có thể thay thế và không thể thay thế).

Với sự hỗ trợ đa tài sản của Cardano thì không phải như thế. Tất cả các token có thể thay thế (Fungible token - FT) và token không thể thay thế (Non-Fungible Token - NFT) đều là token gốc và chia sẻ hầu hết tất cả các chức năng mà ADA có. Sự khác biệt chính là phí gas vẫn luôn được thanh toán bằng ADA và chỉ các token gốc mới có thể được tạo và hủy. 

Các token trên Cardano không cần triển khai thông qua hợp đồng thông minh. Do đó, các token không dễ bị khai thác ở mức độ tương tự như ERC-20 hoặc ERC-721 và không yêu cầu chuyển giao việc thực thi hợp đồng thông minh.

Vì các token không được tạo ra bằng các hợp đồng thông minh không đồng nhất nên các nhà phát triển Dapp có thể tích hợp tất cả các token gốc Cardano theo cùng một cách. Ngoài ra, mô hình eUTXO cho phép nhiều loại token khác nhau được chuyển cùng trong một giao dịch.

Các chính sách mint được viết thành một tập lệnh (script) kèm với địa chỉ token. Các chính sách này xử lý việc ủy quyền cho các giao dịch sử dụng mint và tạo ra nhiều tài sản hơn.

Đề xuất cải tiến Cardano 25 (Cardano Improvement Proposal - CIP25) đã tuyên bố nhãn hiệu siêu dữ liệu cho Cardano NFT giống với ERC-721 của Ethereum.

Staking

Chủ sở hữu (Holder) $ADA ủy quyền token ADA của mình cho stake pool operator (validator) để nhận block reward trong khi vẫn giữ quyền sở hữu ADA. Các holder có thể sử dụng hoặc rút ADA của mình bất cứ lúc nào.

Phí giao dịch được gộp lại trong suốt một epoch và được phân bổ đồng đều cho tất cả các pool tạo ra block cho từng slot trong epoch nhất định; sự phân phối này vẫn công bằng khi số lượng slot leader khác nhau trên mỗi slot. Thay vì dựa vào operator để phân phối, blockchain đảm bảo rằng mọi người ủy quyền (delegator) đều nhận được phần thưởng.

Stake bắt đầu hoạt động sau hai epoch và việc phân phối phần thưởng bắt đầu sau epoch thứ ba. Bất kỳ thay đổi nào đối với tham số operator pool đều mất hai epoch để có hiệu lực, bảo vệ delegator khỏi những thay đổi đột ngột. 

20% phí giao dịch cố định được chuyển vào kho bạc thay vì được phân phối hết cho các staker. Cổ phiếu quỹ (treasury share) này có thể được điều chỉnh thông qua quy trình quản trị và được dùng để hỗ trợ sự phát triển bền vững.

Phần thưởng đặt cược (staking reward) là tối ưu khi tất cả ADA đặt cược được phân bổ đồng đều giữa một số lượng staking pool tùy ý. Tham số K đề cập đến số lượng pool mong muốn: ban đầu là 250 trước khi được cập nhật lên 500, với khả năng tăng lên 1000 để phân quyền nhiều hơn.

Các pool có quá nhiều kinh nghiệm stake sẽ giảm lợi nhuận để khuyến khích phân quyền giữa nhiều pool hơn. Độ bão hòa được xác định bằng nguồn cung lưu thông chia cho tham số K. Cardano không yêu cầu cắt giảm nhờ các ưu đãi trong chương trình chia sẻ phần thưởng của mình.

Ngôn ngữ lập trình Haskell và Plutus

Cardano được xây dựng bằng ngôn ngữ lập trình Haskell, một ngôn ngữ lập trình thuần hàm được nhập tĩnh. Plutus, do IOHK tạo ra, là một ngôn ngữ dựa trên Haskell; có các tính năng bổ sung để hỗ trợ các trường hợp sử dụng blockchain và hợp đồng thông minh.

Vasil hard fork vào tháng 9/2022 đã thêm các tính năng mới với Plutus V2.

Tokenomic

$ADA

$ADA, token gốc trên Cardano, được sử dụng cho các giao dịch P2P, bảo mật và phí gas.

 Nguồn cung tối đa của ADA là 45 tỷ. Khoảng 31,2 tỷ ADA đã được mint trong quá trình Phân phối Block Genesis với 13,8 tỷ ADA còn lại sẽ được mint dưới dạng block reward. Nguồn cung hiện đang lưu thông là khoảng 35 tỷ ADA (78%) 

 Nguồn cung ADA đang tăng khoảng 0,3% mỗi epoch. Hiện tại không có cơ chế burn. Tại thời điểm này, kho bạc nắm giữ hơn 1 tỷ ADA để sử dụng cho việc phát triển hệ sinh thái. 

Phân phối Block Genesis (Genesis Block Distribution)

Khoảng 31,1 tỷ token ADA ban đầu đã được phân phối cho những người tham gia ICO (~83%) và ba tổ chức chính của Cardano (~17%).

Những người tham gia ICO đã mua ~25,9 tỷ voucher token ADA trong bốn đợt (tranche) từ năm 2015 đến 2017 với giá trị ~109.000 BTC, tương đương $63 triệu.

Khoảng 5,2 tỷ ADA đã được phân phối cho IOHK (nay là IOG), Cardano Foundation và EMURGO như sau:

  • IOHK: 2,46 tỷ ADA

  • Quỹ Cardano: 648 triệu ADA

  • EMURGO: 2,07 tỷ ADA

Một công ty Nhật Bản, Attain Corporation, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán voucher/ các đợt ICO và sau đó là phân phối token cho những người sở hữu voucher khi Cardano ra mắt. Một phần số tiền thu được của Attain tương đương với 8.258 BTC đã được quyên góp cho Cardano Foundation.

Tình trạng hệ sinh thái Cardano

Hoạt động năm 2022

 Cardano đã trải qua một đợt tăng đột biến vào quý 1 năm 2022 ở phần hoạt động DeFi. Trong thời kỳ thị trường giảm giá , các giao dịch hàng ngày giảm dần trong quý 2 và ổn định ở mức khoảng 60.000 trong quý 3.

Với mức hoạt động này, Cardano thực hiện trung bình khoảng 0,75 giao dịch mỗi giây (Transactions Per Second - TPS). Điều quan trọng cần lưu ý là TPS eUTXO không tương đương trực tiếp với TPS dựa trên tài khoản, vì thường có nhiều tài sản và nhiều người nhận tham gia vào một giao dịch eUTXO.

Các node và người đặt cược (Staker)

Ban đầu, IOHK là nhà sản xuất block duy nhất, nhưng hiện tại có hơn 2.900 stake pool validator với 71% tổng số ADA được ủy quyền cho họ. Kể từ tháng 3/2021, các stake pool operator đó chịu trách nhiệm duy nhất về việc sản xuất block. Việc phân quyền hoàn toàn và quyền sở hữu cộng đồng được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng như ví Daedalus.

Daedalus là một ví mã nguồn mở được hỗ trợ bởi IOG. Ngoài các chức năng thông thường của light wallet như Yoroi và Nami, ví Daedalus bao gồm một node đầy đủ (full node) có tất cả các khả năng của một node xác thực. Do các node UTXO nhẹ, Daedalus xác thực độc lập tất cả các giao dịch và không cần dựa vào các máy chủ tập trung. 

DeFi

 DeFi TVL của Cardano là ~$78 triệu vào cuối quý 3/2022. Với giá trị vốn hóa thị trường là ~$14,8 tỷ, điều này làm cho tỷ lệ Mcap/TVL của Cardano là ~190 — cao hơn đáng kể so với các đối thủ Ethereum, Solana và Binance với tỷ lệ tương ứng là ~6 , ~17 và ~10.

 Mặc dù đã tồn tại hơn 5 năm nhưng chức năng hợp đồng thông minh mới chỉ được một năm tuổi. Sự khởi đầu muộn này tuân theo đặc điểm của dự án là xây dựng cẩn trọng và có chủ ý với các đánh giá sâu rộng, nhưng cách tiếp cận này đã khiến Cardano mất đi mọi lợi thế tiềm năng của người đi đầu. Tốc độ tăng trưởng chậm cũng có thể là do các nhà phát triển Web3 phải học một ngôn ngữ lập trình mới (Haskell) chứ không chỉ chuyển giao các giao thức EVM.

 Mặc dù DeFi game ra mắt tương đối muộn, TVL của Cardano được xếp thứ 30. Hệ sinh thái đang phát triển của Cardano bao gồm DEX, các giao thức vay và cho vay, nhà cung cấp stablecoin phi tập trung và tất cả cơ sở hạ tầng DeFi thiết yếu khác. Minswap, WingRidersSundaeSwap đang vận hành hệ sinh thái DeFi với tỷ lệ nắm giữ thị phần lần lượt là 52%, 20% và 19%.

NFT

Cardano lưu trữ hơn 8.000 dự án NFT và 15 thị trường nhưng chỉ đạt trung bình khoảng $6,8 triệu về khối lượng hàng tháng — kém xa Ethereum dẫn đầu ngành với hơn $150 triệu về khối lượng hàng tháng. jpg.store đang thống trị về số lượng trên thị trường với hơn 90% thị phần trong quý 3 năm 2022. SpaceBudz, top bộ sưu tập về không gian, đã đạt được hơn 40 triệu ADA về số lượng.

Tầm nhìn Multichain

Cardano đặt mục tiêu có nhiều cách để mở rộng quy mô, chủ yếu thông qua các Layer-2 và sidechain. Các mạng lưới che phủ (overlay network) như Mithril và Mamba được hỗ trợ bởi một tập con của stake pool Cardano và có thể giải quyết các nhu cầu chuyên biệt như khả năng tương thích EVM.

IOG đã phát hành Cardano EVM Sidechain ở dạng alpha vào tháng 6/2022, cho phép các nhà phát triển Solidity dễ dàng chuyển các ứng dụng vào hệ sinh thái Cardano. 

Hydra là một loại L2 dựa trên các kênh trạng thái đẳng cấu và giải pháp optimistic. Ouroboros Hydra là một phiên bản mới của cơ chế đồng thuận Cardano, được thiết kế bởi IOG. Ouroboros Hydra sẽ giúp tốc độ giao dịch nhanh hơn, tăng thông lượng và giảm chi phí giao dịch cho các giao thức Hydra.

Hydra đã được công bố nhiều năm trước khi các hợp đồng thông minh được kích hoạt và hiện đang ở phiên bản beta V0.8, đang nhanh chóng tiếp cận V1.0. Hydra Heads được xem là giao thức Hydra đầu tiên ra mắt.

Cardano đang hướng tới sự hợp tác và khả năng tương tác theo nhiều hướng, Charles Hoskinson thậm chí đã đề xuất Dogecoin tìm một ngôi nhà mới dưới dạng sidechain Cardano.

Nhận dạng kỹ thuật số

Atala PRISM là một nền tảng nhận dạng tự chủ (Self-Sovereign Identity - SSI) trên blockchain Cardano cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cho ngân hàng, y tế, giáo dục, v.v. Các quốc gia, trường đại học và ngành công nghiệp truyền thống trong không gian Web2 đang sử dụng cơ sở hạ tầng nhận dạng của Atala:

  • World Mobile Network đang mang kết nối internet đến các khu vực bị thiếu, bắt đầu với Zanzibar; những người đăng ký mạng này sẽ có thể truy cập Atala cho các dịch vụ kỹ thuật số như ngân hàng và y tế. IOG sở hữu 10% cổ phần của World Mobile.

  • Bộ giáo dục của Ethiopia đang sử dụng Atala làm hệ thống chứng chỉ cho sinh viên.

  • IOG và Georgia có quan hệ đối tác công nghệ nhằm cải thiện bảo mật dữ liệu và fintech.

  • Dish Network đang sử dụng Atala cho hệ thống nhận dạng và khách hàng thân thiết của mình.

Bối cảnh cạnh tranh

 Mọi mạng lưới đều đang cảm thấy sức nóng từ thị trường giảm giá, Cardano cũng cùng chung số phận như hầu hết những blockchain khác với giá trị vốn hóa thị trường giảm 65% cho đến quý 3 năm nay. Mặc dù vậy, vốn hóa thị trường và sự phân quyền của Cardano vượt qua hầu hết các đối thủ cạnh tranh.

Tuy nhiên, hệ sinh thái của Cardano vẫn còn kém xa so với đối thủ mặc dù đã tăng trưởng trong năm nay. Mục tiêu của Cardano trong tương lai gần sẽ là bắt kịp các hệ sinh thái đã được thiết lập và chiếm một ít thị phần.

Kết luận

Hiện tại, việc phát triển hợp đồng thông minh bị chi phối bởi Solidity và EVM. Tuy nhiên, nhiều L1 có các máy ảo khác nhau và một số thậm chí còn sử dụng các ngôn ngữ hoàn toàn mới. Đối với các nhà phát triển, ngôn ngữ và máy ảo là rào cản nhưng không phải là kẻ phá đám.

Ngoài các công cụ, hầu hết các nhà phát triển hợp đồng thông minh đã quen làm việc với các mô hình giao dịch dựa trên tài khoản thay vì UTXO. Trong tình huống xấu nhất, mô hình này là một rào cản khác đối với việc áp dụng của nhà phát triển, nhưng UTXO là cơ hội tốt nhất cho các giải pháp được tối ưu hóa dành riêng cho nền tảng.

Cardano ưu tiên việc nghiên cứu thị trường và đánh giá bình duyệt học thuật hơn các tính năng vận hành nhanh chóng. Chiến lược này có mạng lưới hỗ trợ các đối thủ cạnh tranh trong việc áp dụng hệ sinh thái. Như đã nói, Cardano vẫn là một trong top 10 loại tiền mã hóa tính theo vốn hóa thị trường, có một cộng đồng lớn gồm những người dùng chuyên biệt và có sự hiện diện đặc biệt phổ biến trên phương tiện truyền thông xã hội.

Giai đoạn cuối cùng trong lộ trình của Cardano không quá khác biệt so với giai đoạn của các L1 khác như Ethereum hay Polkadot: đó là một hệ sinh thái đa chuỗi có thể mở rộng, bảo mật và phi tập trung xoay quanh L1 chính. Sự khác biệt là các chặng đường được thực hiện để đạt đến điều đó và các đối tác/ người dùng đồng hành trên suốt hành trình - liệu đó là những người dùng dapp Web3 truyền thống hay những chính phủ.

Bài viết được Lê Mỹ Linh thuộc FXCE Crypto biên tập từ “Cardano: Slow and Steady Scales the Chain” của tác giả Red Sheehan; với mục đích cung cấp thông tin và phi lợi nhuận. Chúng tôi không khuyến nghị đầu tư và không chịu trách nhiệm cho các quyết định đầu tư liên quan đến nội dung bài dịch.

#Layer-1
#Cardano
ic-comment-blueBình luận
#